Bất bình đẳng giới từ lâu đã được công nhận là một thách thức trong quản lý nước và phát triển đô thị. Phụ nữ làm hầu hết các công việc liên quan đến thu gom nước trong phần lớn các khu vực đô thị của một đất nước có thu nhập thấp, phụ nữ làm công việc liên quan đến nước để uống, tiêu dùng gia đình, nhà bếp, làm vườn, và trồng trọt. Tuy nhiên, tiếng nói của họ hiếm khi được nhắc tới trong các hoạt động quản trị nước.
Khi biến đổi khí hậu làm trầm trọng thêm tình trạng khan hiếm nước, mọi người sẽ khó đảm bảo tiếp cận tới các nguồn nước cũng như vai trò của phụ nữ trong hoạt động quản trị nguồn nước, kiểm soát nước tài nguyên, cũng như các dịch vụ liên quan như vệ sinh.
Chúng tôi thấy rằng tiếng nói của phụ nữ trong quản lý nước bị loại trừ một cách có hệ thống và bất lợi dựa trên giới tính như vậy. Khi phụ nữ ở các khu đô thị nghèo, có thu nhập thấp đang gặp phải tình trạng bất lợi về kinh tế giao thoa với khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ nước sạch và vệ sinh.
Nghiên cứu của tác giả Basundhara Bhattarai, từ Viện Nghiên cứu và Phát triển Toàn cầu (IFSD), Sydney, NSW, Australia và các cộng sự, đã lựa chọn hai thị trấn ở Nepal là Dharan Sub metropolitan City và Dhulikhel Municipality, nằm ở phía đông, cách thủ đô Kathmandu khoảng 300 km làm địa điểm nghiên cứu.
Nghiên cứu đã xác định nhiều vấn đề về bất bình đẳng giới trong quản lý nước đô thị. Nhu cầu về giải quyết những bất bình đẳng giới trong quản lý nước đã được công nhận rộng rãi trên khắp các quốc gia đang phát triển (Gambe, 2019; Das, 2017; Meinzen-Dick và cộng sự, 2014). Thách thức này đang được xác định và giải quyết trong các lĩnh vực phát triển khác nhau – nông nghiệp, nước, y tế và vệ, việc làm và giáo dục.
Trong thập kỷ gần đây, Chính phủ các nước đang phát triển đã thực hiện các biện pháp quan trọng để thúc đẩy việc đưa Bình đẳng giới vào các chính sách phát triển cấp quốc gia, tỉnh và địa phương . Các chính sách này thường được đưa ra dưới tiêu chí tiếp cận phát triển có sự tham gia, nhằm cho phép tất cả các bên liên quan bao gồm cả phụ nữ tham gia vào hoạch định chính sách và các quyết định liên quan đến tiếp cận và kiểm soát nước.
Hiến pháp hiện hành của Nepal hiện nay đã có những nỗ lực mang tính bước ngoặt nhằm đạt được sự đại diện công bằng cho phụ nữ và các cộng đồng thiệt thòi ở tất cả các cấp quản lý nhà nước. Trong quốc hội cấp bang, 33% số ghế được dành cho phụ nữ và 41% phụ nữ được bầu tại chính quyền địa phương từ cuộc bầu cử năm 2017 (theo The Australia Aid và Asia Foundation Nepal, 2017). Điều này phù hợp với Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) 5 mà Nepal cam kết. Trong khi SDG 5 là về bình đẳng giới, thì tinh thần của SDG 6 là “đảm bảo có sẵn và quản lý bền vững nước và vệ sinh môi trường cho tất cả mọi người”. Điều này có nghĩa là việc tiếp cận phổ cập với nước, vệ sinh, quản lý an toàn (WASH) và quản lý tài nguyên nước phù hợp sẽ chỉ đạt được nếu quyền của phụ nữ và những nhóm người bị thiệt thòi được đáp ứng về nước.
Nhóm nghiên cứu quan sát thấy rằng ở Dharan, kết nối nguồn nước và sinh kế của phụ nữ địa phương cùng tồn tại theo cách riêng của họ nhưng vẫn có đó những bất bình đẳng vô hình.
Khi biến đổi khí hậu làm sâu sắc thêm sự không chắc chắn về nguồn nước, khó khăn của người dân leo thang trong việc đảm bảo tiếp cận nước cho cuộc sống và sinh kế của họ. Phụ nữ chia sẻ mức độ bị ảnh hưởng cao hơn vì họ là những người chịu trách nhiệm quản lý nước uống, tiêu dùng hộ gia đình, nông nghiệp và thậm chí tạo thu nhập dựa trên nước
Phụ nữ tiếp tục bị phớt lờ trong các quyết định quản lý nước do những hạn chế về văn hóa xã hội. Mặc dù có chính sách đưa sự hiện diện phụ nữ vào các cơ quan quản lý nước, nhưng quyền của phụ nữ được tham gia vào lĩnh vực công cộng hầu như không được công nhận.
Các chính sách bắt buộc phụ nữ tham gia vào vai trò công cộng nhưng các chuẩn mực giới tính gia trưởng truyền thống lại mong muốn họ tập trung vào công việc gia đình. Trong một số trường hợp cực đoan, cuộc sống gia đình của phụ nữ bị đe dọa và thậm chí họ phải đối mặt với bạo lực gia đình, khi họ bất chấp các chuẩn mực truyền thống để tham gia vào lĩnh vực công cộng. Đây chính là quan niệm sai lầm về giới trong quản lý nước ở Nepal. Phát hiện của nhóm nghiên cứu cho thấy sinh kế dựa vào nước của phụ nữ đang phải đối mặt với các mối đe dọa thường xuyên (như nhóm phụ nữ có thâm niên hơn 25 năm trồng sim saag vẫn chưa nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương để được tiếp cận và sử dụng nguồn tài nguyên chung ven sông).
Thật đáng ngạc nhiên khi với sự phổ biến của các hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng trên khắp đất nước, những người trồng trọt ở Dharan này (thuộc nhóm người dễ tổn thương) dường như bị cô lập khỏi sự phát triển chính thống. Với việc thiếu quyền tiếp cận chính thức đối với việc sử dụng dòng sông và bờ sông, những người trồng trọt dường như không an tâm và lo sợ mất đi một trong những lựa chọn sinh kế.
Vẫn còn những lỗ hổng chính sách ở Nepal: Việc ban hành chính sách không nhất quán là một lỗ hổng nghiêm trọng trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ trong các cơ quan quản lý nước. Ở Dharan, không có chuyện phụ nữ có thể là thành viên hợp pháp của hội đồng quản trị khi Ban quản lý cấp nước Dharan (DWMB) không đưa ra bất kỳ điều khoản nào để bao gồm phụ nữ mà tuân theo quy trình thành lập hội đồng quản trị thông thường. DWMB được thành lập theo Đạo luật Ban quản lý cấp nước uống năm 2006 với điều khoản rằng tất cả hội đồng gồm bảy thành viên được thành lập dưới sự lãnh đạo của Thị trưởng với đại diện từ liên đoàn phòng thương mại (FNCCI), hiệp hội người sử dụng nước uống, địa phương, đại diện NGO làm việc trong lĩnh vực nước và môi trường, một chuyên gia về nước và một kỹ sư từ văn phòng (chính phủ).
Đại diện thực sự hay loại trừ sự tham gia: Mặc dù có quy định trong các chính sách về nước, nhưng hiệu quả của nó vẫn còn nhiều nghi vấn vì các chính sách này hầu như không được hỗ trợ bởi các chiến lược thực hiện phù hợp. Chính sách còn thiếu thống nhất giữa các văn bản, các cấp. Về bản chất, những mâu thuẫn như vậy đã làm giảm hiệu quả của các chính sách đối với sự tham gia của phụ nữ. Điều này có thể thấy rõ trong trường hợp của Ủy ban Người sử dụng Nước uống và Vệ sinh Dhulikhel (DDWUC) – được thành lập theo
Đạo luật về Ban Quản lý Cấp nước năm 2006 – đã loại trừ phụ nữ một cách có hệ thống trong việc thành lập ban quản lý nước. Các tiêu chí đã nêu giới hạn tư cách thành viên đối với những người đứng đầu các tổ chức đại diện và các chuyên gia về nước. Hiện tại, không có tổ chức đại diện nào trong hội đồng quản trị Dharan do phụ nữ lãnh đạo và điều này tự động loại trừ phụ nữ khỏi việc ra quyết định, kể cả về quản lý nước
Nỗ lực thách thức quan hệ gia trưởng trong quản lý nước. Ở cả hai thị trấn nghiên cứu, các thành viên nữ của cả ủy ban sử dụng nước uống và đại diện cấp phường của chính quyền địa phương báo cáo rằng họ đã tự tin lên tiếng phản đối các hành vi không tham gia của các thành viên nam trong ủy ban. Một trong những thành viên nữ của Ủy ban Người sử dụng Nước uống và Vệ sinh Dhulikhel (DDWUC) nhận xét: “Phụ nữ chúng tôi đã bao dung nhưng thời gian gần đây chúng tôi không còn làm như vậy nữa. Chúng tôi phản đối nếu các quyết định được đưa ra mà không hỏi ý kiến chúng tôi.” Bất chấp những rào cản xã hội/gia đình cố hữu phổ biến ở địa điểm nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy một số trường hợp trong đó quyền tự quyết của phụ nữ dường như đủ mạnh để đảm nhận các vai trò công cộng, và trở thành hình mẫu cho phần còn lại của cộng đồng và các thành viên nữ khác. Thậm chí, có những trường hợp sự hiện diện của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo đã thách thức tư duy gia trưởng vốn khiến vấn đề của phụ nữ trở nên vô hình trước công chúng.
Các quan chức chính phủ chủ yếu là nam giới được phát hiện là không biết về các vấn đề về nước ở địa phương mà phụ nữ đang phải đối mặt. Tại một trong hai thị trấn, sự can thiệp của lãnh đạo phụ nữ (phó thị trưởng) đã giúp các vấn đề của phụ nữ trở nên rõ ràng hơn bằng cách công khai thách thức tư duy gia trưởng.
Như vậy, trên cơ sở phân tích các hình thức bất bình đẳng giới mới nổi trong hệ thống quản lý nước đô thị ở hai thị trấn được lựa chọn của Nepal, có thể thấy rằng việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới trong môi trường đô thị đòi hỏi một cách tiếp cận mang tính chuyển đổi, trong đó nhấn mạnh nhận thức quan trọng của cả nam giới và phụ nữ về các chuẩn mực xã hội bất bình đẳng giới, thái độ, hành vi và hệ thống xã hội.
Basundhara Bhattarai1; Rachana Upadhyaya2; Kamal Devkota2; Gyanu Maskey2; Suchita Shrestha2; Bandita Mainali3; Hemant Ojha⁴
1. Viện Nghiên cứu và Phát triển Toàn cầu (IFSD), Sydney, NSW, Australia
2. Viện nghiên cứu cao cấp Southasia, Kathmandu, Nepal
3. Đại học La Trobe Ringgold Standard Institute, Melbourne, Vic., Australia
4. Đại học Canberra, Canberra, ACT, Australia
TS. HẠ THUÝ HẠNH
Phó Viện trưởng, Viện NC Cấp thoát nước và Môi trường HỘI CẤP THOÁT NƯỚC VIỆT NAM
(Tổng hợp và lược dịch theo World Water Policy WWP)