Đại học Trà Vinh đưa nước sạch đến từng mái nhà miền mặn

TS. Trần Thị Ngọc Bích - Phó Hiệu trưởng Trường Kỹ thuật và Công nghệ - Trường Đại học Trà Vinh.

TS. Trần Thị Ngọc Bích – Phó Hiệu trưởng Trường Kỹ thuật và Công nghệ – Trường Đại học Trà Vinh.

Tại các cù lao như Long Hòa (Vĩnh Long), tình trạng thiếu nước sinh hoạt trở thành vấn đề cấp bách, đặc biệt đối với phụ nữ, trẻ em và người lớn tuổi.

Trước thực tế đó, Trường Đại học Trà Vinh đã triển khai Chương trình Hỗ trợ nước sạch “Thu hoạch – Lọc sạch – Sinh sống (Harvest – Purify – Live)” nhằm giúp người dân chủ động nguồn nước, nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nhằm làm rõ ý nghĩa và định hướng của chương trình, PV đã có cuộc trao đổi với TS. Trần Thị Ngọc Bích – Phó Hiệu trưởng Trường Kỹ thuật và Công nghệ – Trường Đại học Trà Vinh.

PV: Trong năm 2025, tình trạng xâm nhập mặn và suy giảm nguồn nước ngọt tiếp tục gây áp lực lớn lên đời sống người dân ĐBSCL, đặc biệt là các khu vực cù lao. Từ góc nhìn của nhà nghiên cứu, Tiến sĩ (TS) đánh giá thế nào về những thách thức nổi bật đối với khả năng tiếp cận nước sinh hoạt an toàn của người dân ĐBSCL hiện nay?

TS. Trần Thị Ngọc Bích: Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, ĐBSCL đang phải đối mặt với ba thách thức lớn liên quan trực tiếp đến khả năng tiếp cận nước sinh hoạt an toàn.

Thứ nhất, xâm nhập mặn đi sâu và kéo dài khiến nguồn nước mặt ở nhiều khu vực không còn sử dụng được cho nhu cầu sinh hoạt. Thứ hai, hạn hán và mùa khô kéo dài khiến lượng nước mưa – vốn là nguồn nước chủ yếu của các hộ dân vùng cù lao – trở nên khan hiếm và không đủ dự trữ. Thứ ba, suy giảm nước ngầm do khai thác quá mức dẫn đến sụt lún đất và giảm chất lượng nước, khiến người dân không thể dựa vào nguồn này lâu dài.

Ở các cù lao như Long Hòa, Hòa Minh, thách thức càng rõ rệt hơn do địa hình tách biệt, hạ tầng cấp nước tập trung khó triển khai, và người dân phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nước mưa. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu nước trong mùa khô, ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt, sức khỏe – đặc biệt đối với phụ nữ, trẻ em và người lớn tuổi. Đây là vấn đề không chỉ về kỹ thuật mà còn liên quan đến công bằng xã hội và khả năng thích ứng của cộng đồng trước biến đổi khí hậu.

Đại học Trà Vinh đưa nước sạch đến từng mái nhà miền mặn - Ảnh 1.

TS. Trần Thị Ngọc Bích – Phó Hiệu trưởng Trường Kỹ thuật và Công nghệ – Trường Đại học Trà Vinh chia sẻ tại một hội thảo gần đây.

PV: Chương trình “Thu hoạch – Lọc sạch – Cuộc sống” mà Trường Đại học Trà Vinh triển khai tại cù lao Long Hòa hướng đến mục tiêu hỗ trợ các hộ gia đình thiếu nước sinh hoạt. Xin TS cho biết triết lý và mục tiêu cốt lõi của chương trình trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt?

TS. Trần Thị Ngọc Bích: Triết lý cốt lõi của chương trình là giúp người dân chủ động nguồn nước ngay tại ngôi nhà của mình, thay vì bị phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên hoặc nguồn nước từ nơi khác. Mỗi gia đình có thể tự “thu hoạch” nước mưa, “lọc sạch” thành nước sinh hoạt đạt chuẩn và nhờ đó có “cuộc sống” ổn định hơn trước những biến động thất thường của khí hậu.

Chương trình đặt mục tiêu xây dựng những mô hình thu – trữ – lọc nước đơn giản, chi phí thấp nhưng hiệu quả; đảm bảo người dân có nước sạch đạt chuẩn ngay tại nhà; đồng thời nâng cao năng lực tự chủ của cộng đồng trong ứng phó với xâm nhập mặn và hạn hán. Xa hơn, mô hình đóng góp tích cực vào phát triển bền vững và tăng khả năng chống chịu cho người dân ĐBSCL trước biến đổi khí hậu.

PV: Xin TS cho biết quy trình triển khai hệ thống thu gom và xử lý nước trong chương trình được thực hiện theo các bước nào, từ khảo sát, lựa chọn thiết bị đến tập huấn và bàn giao cho người dân?

TS. Trần Thị Ngọc Bích: Quy trình triển khai hệ thống thu gom và xử lý nước được chúng tôi thực hiện theo một chuỗi bước khép kín, bắt đầu từ khảo sát và kết thúc bằng theo dõi sau lắp đặt. Trước hết, nhóm kỹ thuật tiến hành khảo sát thực địa để đánh giá điều kiện thu nước mưa, dung tích bồn chứa đang có, đặc điểm mái nhà, thói quen sử dụng nước của từng hộ cũng như mức độ xâm nhập mặn tại khu vực. Từ những dữ liệu này, chúng tôi thiết kế và lựa chọn thiết bị phù hợp, có thể là hệ thống lọc dựa vào cao trình tự nhiên, lọc thô hoặc lọc tổng hợp, nhằm đảm bảo chất lượng nước đạt quy chuẩn Việt Nam.

Khi bản thiết kế đã hoàn thiện, đội kỹ thuật phối hợp với người dân tiến hành lắp đặt các bộ phận gồm đường ống thu nước, thiết bị lọc, bồn trữ và hệ thống phân phối. Song song với đó, người dân được tập huấn để nắm cách vận hành, vệ sinh định kỳ và xử lý những sự cố đơn giản, đây là bước rất quan trọng để họ có thể tự chủ sử dụng hệ thống. Cuối cùng, sau khi bàn giao, nhà trường tiếp tục theo dõi chất lượng nước, hỗ trợ kỹ thuật khi cần và ghi nhận phản hồi của người dân để điều chỉnh, cải tiến mô hình cho phù hợp hơn với điều kiện thực tế.

PV: Một điểm đáng chú ý của chương trình là hệ thống có thể được vận hành ngay tại hộ gia đình. Xin TS cho biết yếu tố nào giúp mô hình này dễ sử dụng, dễ bảo trì và phù hợp với thói quen sinh hoạt của người dân ở cù lao Long Hòa?

TS. Trần Thị Ngọc Bích: Chúng tôi thiết kế mô hình dựa trên ba nguyên tắc: đơn giản – bền bỉ – phù hợp với thực tế sử dụng. Hệ thống chỉ gồm các thao tác cơ bản như mở/đóng van, vệ sinh bộ lọc bằng tay và theo dõi dòng nước. Các vật tư trong hệ thống đều dễ tìm kiếm tại địa phương, giúp người dân có thể tự thay thế linh kiện khi cần.

Ngoài ra, chúng tôi tích hợp cả quy trình xử lý nước phù hợp với nguồn nước mưa – nguồn nước quen thuộc với người dân ở Long Hòa. Điều này tạo ra sự gần gũi, giúp người dân nhanh chóng làm chủ công nghệ và vận hành hàng ngày mà không cần phụ thuộc vào kỹ thuật viên.

Những ưu điểm nổi bật của mô hình thể hiện rõ ở tính tiện lợi, tiết kiệm và dễ tiếp cận. Không phụ thuộc điện năng, hệ thống hoạt động chủ yếu dựa trên nguyên lý trọng lực, giúp tiết kiệm chi phí vận hành và không bị gián đoạn khi mất điện.

Vật liệu “thân thiện”: Các bộ lọc sử dụng vật liệu dễ tìm hoặc dễ thay thế với chi phí thấp. Thiết kế hệ thống nhỏ gọn, tích hợp ngay vào các lu, vại hoặc bể chứa mà người dân đã quen sử dụng bao đời nay.

Dễ vận hành: Quy trình lọc được tự động hóa ở mức cơ bản. Việc bảo trì chỉ đơn giản là rửa bộ lọc định kỳ mà bất kỳ ai trong gia đình, từ người lớn tuổi đến phụ nữ, đều có thể thực hiện dễ dàng.

PV: Sau thời gian triển khai, chương trình đã ghi nhận những kết quả hoặc chuyển biến cụ thể nào về chất lượng nước, sức khỏe, sinh hoạt và sự chủ động của người dân trong vấn đề bảo đảm nước sạch?

TS. Trần Thị Ngọc Bích: Sau thời gian triển khai, chương trình đã ghi nhận nhiều chuyển biến rõ rệt cả về chất lượng nước lẫn đời sống của người dân. Kết quả kiểm tra cho thấy nước sau lọc đạt các chỉ tiêu theo quy chuẩn, đặc biệt ở độ đục và vi sinh, giúp người dân yên tâm sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt và nấu ăn hằng ngày. Nhờ có nguồn nước ổn định, tình trạng thiếu nước trong mùa khô giảm đáng kể, kéo theo chi phí mua nước ngọt cũng giảm mạnh. Điều này góp phần giảm bớt gánh nặng cho các nhóm dễ bị tổn thương, nhất là phụ nữ và trẻ em vốn phải đảm nhận việc đi đổi nước trong những tháng khô hạn.

Đáng chú ý hơn cả là sự thay đổi về nhận thức và thói quen sử dụng nước. Từ chỗ trông chờ hoàn toàn vào nguồn nước ngọt bên ngoài, người dân nay đã biết chủ động tính toán lượng mưa, vệ sinh mái nhà và bể chứa, kiểm tra hệ thống lọc và dự trữ nước hợp lý cho mùa khô. Sự chủ động này tạo nên tâm lý an tâm, tự tin, thể hiện ngay trong sinh hoạt hằng ngày của bà con. Một số hộ còn chia sẻ kinh nghiệm lắp đặt, vận hành cho hàng xóm, cho thấy mô hình không chỉ mang lại lợi ích thiết thực mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực trong cộng đồng.

Kết quả bước đầu cho thấy nhiều tín hiệu tích cực. Chất lượng nước sau lọc đạt các chỉ tiêu theo quy chuẩn, đặc biệt là độ đục và vi sinh. Người dân ghi nhận giảm đáng kể tình trạng thiếu nước trong mùa khô, giảm chi phí mua nước và yên tâm hơn trong sinh hoạt hàng ngày.

Đại học Trà Vinh đưa nước sạch đến từng mái nhà miền mặn - Ảnh 2.

Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ thăm và làm việc tại Trung tâm nước STARS – Trường Đại học Trà Vinh

PV: Trong thời gian tới, Trường Kỹ thuật và Công nghệ – Đại học Trà Vinh có kế hoạch mở rộng mô hình sang các địa phương khác trong vùng ĐBSCL hay không? Theo TS, để nhân rộng thành công, cần sự vào cuộc như thế nào từ phía chính quyền, cộng đồng và các tổ chức đồng hành?

TS. Trần Thị Ngọc Bích: Hiện nay, chúng tôi đang phối hợp với nhiều đối tác trong và ngoài nước để mở rộng mô hình ra các tỉnh ven biển ĐBSCL, đây là những nơi chịu tác động nặng nề của xâm nhập mặn như Trà Vinh, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trăng hay Bạc Liêu. Thực tế nhu cầu của người dân rất lớn và mô hình đã chứng minh tính khả thi qua quá trình triển khai, vì vậy việc nhân rộng là hoàn toàn phù hợp và cần thiết.

Tuy nhiên, để mô hình có thể phát huy hiệu quả trên diện rộng, Trường Đại học Trà Vinh không thể đi một mình. Chúng tôi xác định phải có sự chung tay của cả hệ sinh thái “Nhà nước – Nhà trường – Doanh nghiệp – Cộng đồng”. Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc rà soát nhu cầu, bố trí mặt bằng, và kết nối mô hình với các chương trình mục tiêu quốc gia cũng như chính sách hỗ trợ hộ nghèo. Về phía cộng đồng, sự tham gia chủ động của người dân trong vận hành, bảo trì và lan tỏa mô hình là yếu tố quyết định sự bền vững. Các tổ chức đồng hành và doanh nghiệp sẽ góp phần hỗ trợ kỹ thuật, tài trợ thiết bị và cùng triển khai những mô hình thí điểm mới.

Khi các bên phối hợp đồng bộ, mô hình “Thu hoạch – Lọc sạch – Cuộc sống” hoàn toàn có thể trở thành một giải pháp lâu dài, giúp hàng chục nghìn hộ dân trong vùng chủ động nguồn nước sạch giữa bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt. Trường Đại học Trà Vinh cam kết tiếp tục giữ vai trò tiên phong trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, làm cầu nối đưa nước sạch đến với mọi gia đình.

PV: Những nỗ lực của đội ngũ giảng viên Trường Kỹ thuật và Công nghệ – Đại học Trà Vinh thêm một lần khẳng định vai trò của người thầy trong thời đại mới, không chỉ truyền dạy những kiến thức quý giá cho đội ngũ kỹ sư ngành Nước mà còn đồng hành với cộng đồng, đưa tri thức khoa học vào đời sống và bền bỉ phụng sự sự phát triển của vùng đất mình gắn bó. Nhân dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam, Tạp chí Cấp Thoát nước Việt Nam chúc thầy cô giáo Trường Đại học Trà Vinh lời chúc tốt đẹp nhất.

Cảm ơn TS. Trần Thị Ngọc Bích về cuộc trò chuyện này!

Trung Kiên (thực hiện)

Các bài viết liên quan