Một số bất cập trong cơ chế, chính sách lĩnh vực cấp nước nhìn từ thực tiễn doanh nghiệp

Thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp cấp nước cho thấy, bên cạnh những chuyển biến tích cực trong hoàn thiện thể chế, hệ thống cơ chế, chính sách hiện hành vẫn còn tồn tại một số bất cập, thiếu thống nhất. Những vướng mắc này đang ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư, quản lý vận hành và sự phát triển bền vững của ngành cấp nước sạch.

Tại Đại hội Chi hội Cấp Thoát nước miền Bắc nhiệm kỳ 2025 – 2028, đại diện Công ty CP Nước sạch Lai Châu đã trình bày những điểm còn hạn chế đồng thời đưa ra các kiến nghị tháo gỡ thông qua tham luận “Một số bất cập trong cơ chế, chính sách đối với ngành cấp nước sạch hiện nay”.

Trong những năm qua, cùng với quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và yêu cầu quản lý nhà nước ngày càng cao, hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực cấp thoát nước đã từng bước được bổ sung, điều chỉnh. Nhiều quy định mới được ban hành, góp phần tạo hành lang pháp lý cho hoạt động sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch, đồng thời thúc đẩy xã hội hóa đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ cấp nước.

Đặc biệt, sự vào cuộc tích cực của Hội Cấp Thoát nước Việt Nam trong việc tập hợp ý kiến từ thực tiễn, tham gia góp ý các dự thảo luật, nghị định, thông tư đã góp phần quan trọng vào quá trình hoàn thiện chính sách, từ Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Luật Giá đến các văn bản hướng dẫn chuyên ngành.

Tuy nhiên, từ góc độ doanh nghiệp trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực cấp nước sạch, thực tiễn triển khai tại địa phương cho thấy vẫn còn tồn tại một số bất cập trong cơ chế, chính sách, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đầu tư, vận hành và phát triển bền vững của Ngành.

Một số bất cập trong cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực cấp nước: Từ thực tiễn doanh nghiệp - Ảnh 1.

Lĩnh vực cấp nước vẫn còn tồn tại một số bất cập trong cơ chế, chính sách, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, vận hành và phát triển bền vững. Ảnh: Nguyễn Thái Hòa.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn phân tán, thiếu thống nhất

Hiện nay, lĩnh vực cấp nước sạch chưa có Luật Cấp Thoát nước để điều chỉnh toàn diện, thống nhất các hoạt động từ đầu tư, quản lý, vận hành đến tiêu thụ sản phẩm. Thay vào đó, doanh nghiệp cấp nước đang chịu sự điều chỉnh đồng thời của nhiều luật khác nhau như: Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Giá, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch… và hàng loạt nghị định, thông tư hướng dẫn.

Do được ban hành ở các thời điểm khác nhau, với mục tiêu điều chỉnh khác nhau, nên giữa các văn bản này vẫn tồn tại những quy định chưa đồng bộ, thậm chí chồng chéo, gây khó khăn cho địa phương và doanh nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện.

Một ví dụ điển hình là quy định về giao tài sản kết cấu hạ tầng nước sạch. Nghị định số 43/2022/NĐ-CP quy định doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc đối tượng được giao tài sản hạ tầng nước sạch theo hình thức ghi tăng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 02/7/2021 quy định doanh nghiệp cấp nước thuộc trường hợp vốn nhà nước nắm giữ trên 50% đến dưới 65% vốn điều lệ và Quyết định 1479/QĐ-TTg ngày 29/11/2022 quy định một số đơn vị cấp nước phải giữ nguyên phần vốn nhà nước.

Việc này dẫn đến một số doanh nghiệp hiện đang có vốn nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ sẽ không được giao tài sản kết cấu hạ tầng nước sạch theo quy định tại Điều 5, Nghị định 43. Thực tế, việc này dẫn đến khó khăn cho một số địa phương, trong đó có Lai Châu, dự án nước sạch sau khi được nhà nước đầu tư không bàn giao được cho doanh nghiệp có chuyên môn về nước sạch để quản lý vận hành đảm bảo hiệu quả sau đầu tư.

Bên cạnh đó, Nghị định số 165/2024/NĐ-CP quy định các công trình cấp nước khi thi công trong phạm vi bảo vệ kết cấu hạ tầng đường bộ phải tự di dời hoặc cải tạo mà không được bồi thường, dù đã được cấp phép thi công trước đó. Quy định này tạo ra gánh nặng tài chính lớn, phát sinh đột xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cân đối vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cấp nước.

Bất cập trong cơ chế tài chính và chính sách giá nước

Một trong những vấn đề được các doanh nghiệp cấp nước quan tâm hiện nay là cơ chế giá nước. Tại nhiều địa phương, giá nước sạch chưa được cập nhật kịp thời theo nguyên tắc tính đúng, tính đủ. Có nơi giá nước 3-5 năm chưa được điều chỉnh, trong khi chi phí đầu vào (điện, hóa chất, nhân công, bảo trì hệ thống…) liên tục tăng. Điều này khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong bù đắp chi phí vận hành, hạn chế nguồn lực dành cho bảo trì, giảm thất thoát và đầu tư mở rộng mạng lưới.

Bên cạnh đó, việc thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể về phương pháp xác định giá nước sạch cũng gây lúng túng cho các đơn vị. Thông tư 44/2021/TT-BTC đã hết hiệu lực nhưng chưa có văn bản thay thế tương ứng. Thông tư 45/2024/TT-BTC mới chỉ hướng dẫn định giá đối với một đơn vị hàng hóa, dịch vụ, chưa làm rõ cách xác định giá nước cho từng mục đích sử dụng. Vì vậy, trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp chưa đủ cơ sở pháp lý để xây dựng và trình phương án điều chỉnh giá.

Ngoài ra, chưa có quy định thống nhất về phân nhóm đối tượng áp dụng giá nước. Việc phân loại các nhóm như hộ dân cư, hành chính sự nghiệp, sản xuất vật chất, kinh doanh dịch vụ đang được các địa phương áp dụng khác nhau. Đối với trường hợp hộ gia đình sử dụng nước cho nhiều mục đích, mỗi nơi lại có cách tính riêng, gây thiếu thống nhất, khó giải trình và tiềm ẩn nguy cơ phát sinh khiếu nại.

Đại diện Công ty CP Nước sạch Lai Châu đưa ra ví dụ: Hộ gia đình sử dụng nước cho nhiều mục đích khác nhau (vừa sinh hoạt, vừa sản xuất vật chất hoặc kinh doanh dịch vụ), có đơn vị áp 100% giá nước kinh doanh, có đơn vị lại tính 2 mức sinh hoạt, sau đó mới tính giá kinh doanh, có đơn vị lại tính 3 mức sinh hoạt, sau đó mới tính giá kinh doanh.

Chưa thống nhất trong quy định về khái niệm, từ ngữ tại các văn bản quy phạm pháp luật

Một số khái niệm, cách diễn đạt trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa được định nghĩa rõ ràng, thiếu thống nhất, hoặc không được giải thích cụ thể, dẫn đến mỗi cơ quan, địa phương, thậm chí cán bộ thực thi hiểu và áp dụng khác nhau. Tình trạng này không chỉ gây lúng túng khi triển khai, mà còn tiềm ẩn nguy cơ áp dụng sai, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng thực thi các quy định của ngành Nước.

Chẳng hạn, Nghị định 124/2011/NĐ-CP quy định miễn tiền sử dụng đất cho các công trình cấp nước, bao gồm cả nhà hành chính, nhà điều hành, kho bãi, vật tư, thiết bị. Trong khi đó, Luật Đất đai hiện hành và Nghị định 06/2021/NĐ-CP chỉ công nhận “công trình cấp nước” là nhà máy, trạm bơm, bể chứa, tuyến ống… không bao gồm nhà điều hành hay trụ sở làm việc. Sự không đồng nhất này khiến việc thực hiện thủ tục miễn tiền sử dụng đất cho khu đất nhà điều hành, trụ sở của đơn vị cấp nước gặp nhiều khó khăn.

Hay như quy định tại điểm d, Khoản 5, Điều 47, Nghị định 54/2024/NĐ-CP: Trường hợp cơ sở sản xuất (bao gồm cả cơ sở sản xuất, cung cấp nước sạch trong các khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu chức năng sản xuất công nghiệp của khu kinh tế), kinh doanh, dịch vụ khai thác nước phục vụ sinh hoạt và các mục đích khác trong phạm vi cơ sở đó thì toàn bộ lượng nước sử dụng được tính cho mục đích sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của cơ sở đó”.

Quy định này chỉ áp dụng đối với các cơ sở tự khai thác nước để dùng nội bộ. Tuy nhiên, khi triển khai, một số cơ quan chuyên môn lại hiểu rằng khách hàng mua nước từ đơn vị cấp nước, sử dụng cho cả sinh hoạt và mục đích khác, phải tính 100% sản lượng theo giá kinh doanh dịch vụ và phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Cách áp dụng này dẫn đến bất cập: phần nước dùng cho sinh hoạt, lẽ ra được miễn nộp tiền cấp quyền khai thác theo điểm a khoản 3 điều 69 Luật Tài nguyên nước nay lại bị tính thu tiền.

Tương tự, quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt cũng chưa làm rõ việc tính thuế giá trị gia tăng, khiến các địa phương áp dụng khác nhau, thiếu thống nhất trong thực tiễn. Nghị định 53/2020/NĐ-CP, Điều 6, khoản 1 quy định: “Mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt là 10% trên giá bán của 1m3 nước sạch trước thuế”. Tuy nhiên, quy định này chưa nêu rõ khoản phí 10% nói trên đã bao gồm thuế giá trị gia tăng hay chưa, dẫn đến cách hiểu khác nhau. Thực tế, có địa phương thực hiện không tính thuế trên khoản phí này, trong khi địa phương khác lại tính thêm thuế.

Một số kiến nghị từ thực tiễn doanh nghiệp

Từ những bất cập nêu trên, đại diện các doanh nghiệp cấp nước kiến nghị Chi hội Cấp Thoát nước miền Bắc và Hội Cấp Thoát nước Việt Nam tiếp tục đóng vai trò cầu nối, tổng hợp ý kiến từ cơ sở, chủ động tham gia góp ý xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến lĩnh vực cấp thoát nước theo hướng rõ ràng, thống nhất, khả thi.

Bên cạnh đó, cần đẩy các hoạt động chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao và ứng dụng công nghệ mới trong quản lý mạng lưới, kiểm soát thất thoát, vận hành nhà máy và chuyển đổi số trong ngành Nước, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và đảm bảo cấp nước an toàn, bền vững.

Tăng cường tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, cập nhật kiến thức pháp luật, kỹ năng quản lý vận hành, cũng như các chương trình đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ kỹ sư, công nhân ngành Nước; góp phần xây dựng nguồn nhân lực đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay và trong tương lai.

Việc tháo gỡ kịp thời các rào cản về cơ chế, chính sách trên sẽ giúp doanh nghiệp cấp nước hoạt động hiệu quả hơn, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội bền vững trong giai đoạn tới.

Đại diện Công ty CP Nước sạch Lai Châu kỳ vọng, với sự quan tâm, chỉ đạo của Hội Cấp Thoát nước Việt Nam, Chi hội Cấp Thoát nước miền Bắc và sự đồng hành của các đơn vị hội viên, ngành Cấp Thoát nước thời gian tới sẽ tiếp tục có những đổi mới, tăng cường hợp tác, vượt qua những rào cản chính sách để phát triển bền vững hơn nữa trong tương lai.

Vy Anh

Các bài viết liên quan