Hội thảo thu hút sự tham gia của đông đảo đại diện các công ty cấp thoát nước, hội viên Hội Cấp Thoát nước Việt Nam (VWSA), đại diện các cơ quan quản lý Nhà nước, các diễn giả trong nước và quốc tế. Phiên hội thảo được điều hành bởi TS. Trần Anh Tuấn – Phó Chủ tịch VWSA.
Phát biểu khai mạc hội thảo TS. Nguyễn Ngọc Điệp – Chủ tịch VWSA nhấn mạnh các thách thức của BĐKH, vai trò của nguồn nước, chất lượng nước cho cuộc sống và sản xuất, phát triển. Trong đó đặc biệt quan tâm đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi thừa nước vào mùa lũ nhưng lại thiếu nước và đối mặt với diễn biến thời tiết cực đoan, xâm nhập mặn vào mùa khô.
Có 11 tham luận của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà cung cấp giải pháp công nghệ đến từ các bộ, ban ngành trong nước, các hội cấp thoát nước quốc tế, tập trung vào chủ đề chính của hội thảo là nguồn nước, chất lượng nước, vận hành công trình cấp thoát nước, thích ứng bền vững với BĐKH.
GS. Đào Xuân Học đã chỉ ra con số 63% nguồn nước ở Việt Nam đến từ các con sông lớn ngoài lãnh thổ. Cũng từ thượng nguồn các con sông lớn, các nước đã xây dựng rất nhiều công trình làm giảm lưu lượng nước, giảm chất lượng nước.
Đây là vấn đề quan trọng và lâu dài tác động đến nguồn nước và gây ra cạn kiện nguồn nước cùng với BĐKH. Cùng với các giải pháp ngắn, trung và dài hạn thích ứng với BĐKH, trước mắt Nhà nước cần đổi mới, nâng cao hiệu quả thể chế chính sách vì hiện nay hệ thống luật pháp có sự chồng chéo, chồng lấp lên nhau trong quản lý vừa gây khó khăn vừa lãng phí rất lớn về nguồn lực.
Cụ thể, cùng một nội dung về quy hoạch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có Quy hoạch Thủy lợi; Bộ Tài nguyên và Môi trường có Quy hoạch Nguồn nước và Tài nguyên Môi trường. Cả 2 quy hoạch trên cùng thể hiện một vấn đề vì tài nguyên nước và nguồn nước chỉ là một. GS. Đào Xuân Học dẫn chứng định nghĩa nguồn nước và tài nguyên nước được ghi tại trang 404 tập 4 tự điển Bách khoa Toàn thư.
Từ sự chồng chéo trong thể chế dẫn đến thực tế một đoạn sông có rất nhiều đơn vị quản lý. Quản lý hai bên sông là một bộ; lòng sông lại do bộ khác quản lý. Khi phát hiện khai thác cát trái phép gây sạt lở bờ sông thì hai bên đổ lỗi cho nhau dẫn đến không giải quyết được vấn đề.
“Đây chính là mấu chốt cần được sớm tháo gở, giúp ngành nước nói riêng và các ngành khác nói chung chủ động thích ứng với BĐKH. Rất mong các nhà khoa học, các đại biểu có cùng ý kiến, kiến nghị giúp Chính phủ sắp xếp lại bộ máy tinh gọn, hiệu quả”, GS. Đào Xuân Học nhấn mạnh.
TS. Sandra Hall, Giám đốc Cơ quan quản lý nước Australia chỉ ra, BĐKH gây suy giảm chất lượng và cạn kiệt nguồn nước là một trong những rủi ro toàn cầu cũng như hạn hán, thiên tai… Để thích ứng bền vững cần có kế hoạch ứng phó lâu dài, quản trị tốt, cân bằng và phát triển bền vững; bảo đảm chất lượng nước; bảo đảm cung cấp nước sạch, vệ sinh cho cộng đồng.
Giải pháp quan trọng nhất được các nhà khoa học chỉ ra “Quản lý nguồn nước, quản lý môi trường là quản lý cả khu vực chứ không thể riêng lẻ, cục bộ. Giải pháp xuyên suốt lâu dài cho bảo đảm nguồn nước và thích ứng với BĐKH cho ĐBSCL là chấm dứt tình trạng chia nhỏ manh mún, nhất thời. Thay vào đó là sự thống nhất trong nhận thức, thực hiện quy hoạch đồng bộ với tầm nhìn dài hạn”.
Kết thúc hội thảo, TS. Trần Anh Tuấn kết luận: BĐKH là thực tế không thể né tránh. Giải pháp của các nhà khoa học, nhà quản lý chỉ ra tại hội thảo không phải chống BĐKH mà là hướng đi thuận thiên, giải pháp thức thích ứng bền vững, phù hợp và dễ áp dụng trong thực tế.
Duy Chí