Đồng Nai tăng tốc hoàn thiện hệ thống nước sạch nông thôn đến năm 2030

Những con số này cho thấy địa phương đã đạt độ phủ tương đối tốt, song áp lực từ quá trình đô thị hóa, chuyển dịch dân cư và suy giảm nguồn nước đặt ra yêu cầu cao hơn về tính đồng bộ của quy hoạch và chất lượng vận hành hệ thống cấp nước. 

Đồng Nai tăng tốc hoàn thiện hệ thống nước sạch nông thôn đến năm 2030 - Ảnh 1.

Hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai) là nguồn nước thô thiết yếu để các nhà máy nước lấy về, xử lý và cung cấp nước sạch cho người dân.

Đầu tư hạ tầng rộng khắp nhưng chịu áp lực về thiếu đồng bộ quy hoạch

Thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Nai cho biết, giai đoạn 2021 – 2025, Đồng Nai (cũ) triển khai 26 dự án cấp nước sạch nông thôn, với 15 công trình đưa vào sử dụng và 11 công trình đang ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Tổng chiều dài mạng lưới ống truyền tải và phân phối đạt 1.048km, mức đầu tư hơn 2.300 tỷ đồng. Đây là quy mô hiếm có trong đầu tư hạ tầng nông thôn ở khu vực phía Nam, phản ánh nỗ lực mở rộng dịch vụ cấp nước an toàn đến từng cụm dân cư.

Tuy nhiên, đằng sau khối lượng đầu tư lớn là những vướng mắc mang tính cấu trúc. Hầu hết doanh nghiệp cấp nước trên địa bàn chưa được phân vùng cấp nước cụ thể, khiến việc lập kế hoạch đầu tư dài hạn thiếu nền tảng ổn định. Quy hoạch hạ tầng đô thị, giao thông và cấp nước chưa đồng bộ dẫn tới nhiều dự án phải điều chỉnh hoặc chậm tiến độ.

Một số khu vực vướng quy hoạch sử dụng đất hoặc định hướng phát triển dân cư nên không thể triển khai công trình cấp nước tập trung. Giá nước sạch sau thẩm định và phê duyệt cũng được đánh giá còn cao so với khả năng chi trả của một bộ phận người dân nông thôn, ảnh hưởng đến hiệu quả vận hành công trình.

Nhìn rộng hơn, tình trạng 39 công trình cấp nước tập trung ngưng hoạt động trên tổng số 91 công trình ở Đồng Nai (cũ) cho thấy sự phân mảnh trong đầu tư và thiếu tính bền vững về vận hành. Đây là thách thức chung của nhiều tỉnh đang phát triển nhanh như mạng lưới cấp nước nông thôn khó theo kịp tốc độ thay đổi của quy hoạch, trong khi nhu cầu dịch vụ lại phân bố không đồng đều.

Trong khi đó, tại Bình Phước (cũ), dù không dùng ngân sách đầu tư hạ tầng nước sạch nông thôn trong giai đoạn 2021 – 2025, các doanh nghiệp cấp nước đã tự bỏ vốn triển khai hơn 320 km đường ống phục vụ khoảng 5,8 ngàn hộ dân. Mô hình này cho thấy doanh nghiệp có thể đóng vai trò chủ động nếu cơ chế phân vùng và giá nước được thiết kế phù hợp.

Giai đoạn 2026 – 2030, đầu tư tinh chỉnh và tái cấu trúc mạng lưới

Bước sang giai đoạn mới, Đồng Nai đặt mục tiêu đầu tư thêm 10 công trình cấp nước nông thôn, phục vụ khoảng 137,2 ngàn người, với tổng mức đầu tư hơn 680,7 tỷ đồng. Cùng với đó, tỉnh dự kiến dành hơn 2.500 tỷ đồng để cải tạo, sửa chữa và mở rộng tuyến ống cấp nước hiện hữu nhằm nâng cao độ ổn định và khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng. Đây là giai đoạn quan trọng để tái cấu trúc mạng lưới cấp nước nông thôn theo hướng đồng bộ, hiệu quả và bền vững.

Bà Nguyễn Thị Hoàng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai nhấn mạnh, mục tiêu đến năm 2030, tỉnh Đồng Nai sẽ nâng tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn lên 85%, trong đó 68% lấy từ công trình cấp nước tập trung. Bà cho rằng để đạt mục tiêu này, tỉnh cần rà soát toàn bộ danh mục công trình cấp nước nông thôn, cập nhật vào quy hoạch, xác lập phân vùng đầu tư cụ thể và xử lý tình trạng chồng lấn giữa các dự án.

Bà Hoàng cũng yêu cầu các phường, xã phải đánh giá lại tình trạng công trình cấp nước tập trung đang hoạt động và ngưng hoạt động, xác định những khu vực cần ưu tiên đầu tư mới hoặc hỗ trợ giải pháp hộ gia đình tại nơi dân cư thưa thớt. Một trọng tâm nữa là kiểm tra lại hệ thống hồ chứa, hồ nào giảm nhu cầu tưới nông nghiệp phải được xem xét điều tiết sang phục vụ nước sinh hoạt để tối ưu nguồn trữ nước.

Đây là định hướng có ý nghĩa lớn, bởi các hồ chứa đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước mặt và nước ngầm. Việc điều phối nguồn nước từ hồ cho sinh hoạt sẽ mở ra dư địa để ổn định cấp nước trong mùa khô, giảm áp lực cho mạng lưới ống truyền tải ở những khu vực xa.

Nhìn vào toàn bộ bức tranh, Đồng Nai đang chuyển từ mô hình đầu tư dàn trải sang hướng đầu tư có phân vùng và bám sát quy hoạch tổng thể. Nếu giai đoạn 2021–2025 là giai đoạn “phủ kín” mạng lưới nước sạch nông thôn, thì giai đoạn 2026–2030 phải là giai đoạn “tinh chỉnh và tái cấu trúc” nhằm bảo đảm công trình vận hành bền vững, tránh lãng phí tài sản công và nâng chất lượng dịch vụ.

Điểm nghẽn từ cơ chế và thực tế vận hành

Dù định hướng đầu tư đã rõ, bài toán lớn nhất vẫn là cơ chế thực thi. Nguồn vốn ngân sách dành cho nước sạch nông thôn vốn đã hạn chế, trong khi việc lồng ghép các nguồn vốn khác gặp nhiều vướng mắc do sự khác biệt về quy trình, quy định pháp lý. Đặc biệt, doanh nghiệp vẫn khó tham gia dự án nước sạch tại vùng sâu, vùng biên giới do lợi nhuận thấp, chi phí đầu tư lớn và mức tiêu thụ nước không ổn định.

Đồng Nai tăng tốc hoàn thiện hệ thống nước sạch nông thôn đến năm 2030 - Ảnh 2.

Sau sát nhập địa giới hành chính, một số vùng cấp nước bị trùng lặp là một trong những có khăn cho doanh nghiệp cấp nước tại Bình Phước (cũ). Ảnh: minh hoạ

Tại Bình Phước (cũ), doanh nghiệp cấp thoát nước đang gặp khó khăn khi sáp nhập địa giới hành chính đã khiến một số vùng cấp nước bị trùng lắp. Doanh nghiệp xin cấp phép thi công, chính quyền địa phương còn lúng túng trong việc xác định phạm vi cấp nước. Thủ tục phức tạp và kéo dài cũng là rào cản khiến doanh nghiệp khó chủ động kế hoạch đầu tư.

Ở góc nhìn khác, doanh nghiệp cung cấp nước sạch cho biết, thói quen sử dụng nước giếng khoan, giếng đào hoặc nước mưa của người dân vẫn là thách thức lớn đối với việc mở rộng cấp nước tập trung. Các doanh nghiệp đề nghị tỉnh Đồng Nai có chính sách hỗ trợ đầu tư cho vùng sâu, vùng xa và ưu tiên các công trình lớn sử dụng nguồn nước mặt để đảm bảo tính bền vững lâu dài. Đồng thời, những chính sách như giao đất công cho doanh nghiệp hoặc hỗ trợ tín dụng sẽ tạo động lực mạnh hơn cho nhà đầu tư.

Nhiều chủ đầu tư cũng kiến nghị được phép điều tiết thêm nước sinh hoạt từ các hồ thủy lợi, đặc biệt tại những nơi diện tích tưới nông nghiệp đang giảm do chuyển đổi cây trồng. Đây là giải pháp mang tính liên ngành, vừa tận dụng nguồn nước mặt sẵn có, vừa mở rộng khả năng cấp nước cho các khu dân cư mới.

Từ những dữ liệu và đánh giá hiện tại, có thể thấy Đồng Nai đã hoàn thành giai đoạn đầu tư phủ rộng và đang bước vào giai đoạn đòi hỏi chất lượng kỹ thuật cao hơn, phân vùng rõ ràng, quy hoạch tích hợp, cơ chế giá hợp lý, nguồn nước ổn định và mô hình vận hành bền vững.

Thành công của giai đoạn 2026 – 2030 sẽ phụ thuộc vào khả năng Đồng Nai chuyển từ “đầu tư bằng vốn” sang “đầu tư bằng quy hoạch và cơ chế”, trong đó vai trò điều phối của chính quyền và sự đồng hành của doanh nghiệp sẽ quyết định hiệu quả thực tế của từng công trình và độ bền vững của hệ thống cấp nước nông thôn toàn tỉnh.

Trung Kiên

Các bài viết liên quan